Vào ngày 10/3, Ngân hàng Silicon Valley (SVB) đã trở thành ngân hàng phá sản lớn nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008.
SVB đã cung cấp dịch vụ ngân hàng cho gần một nửa số công ty công nghệ hỗ trợ bởi vốn mạo hiểm của Mỹ và cho hơn 2.500 công ty đầu tư mạo hiểm.
Trong nhiều thập kỷ, Ngân hàng SVB, giống như hầu hết các đối thủ cạnh tranh, đã nắm giữ một phần tiền gửi bằng tiền mặt và sử dụng phần còn lại để mua trái phiếu chính phủ và các sản phẩm nợ dài hạn như trái phiếu chính phủ. Một khoản đầu tư hứa hẹn lợi nhuận khiêm tốn, ổn định trong khi lãi suất vẫn ở mức thấp. Nhưng các ngân hàng đã không tính đến những gì đang xảy ra trong nền kinh tế rộng lớn hơn, vốn đã quá nóng hơn một năm sau đại dịch.

Điều này có nghĩa là SVB đã rơi vào tình trạng chao đảo khi Cục Dự trữ Liên bang tìm cách chống lại lạm phát nhanh chóng, bắt đầu tăng lãi suất.
Nhưng không phải tất cả các vấn đề của SVB đều liên quan đến việc tăng lãi suất. Bởi vì hoạt động kinh doanh của ngân hàng tập trung vào ngành công nghệ, nên SVB bắt đầu gặp rắc rối khi nguồn tài trợ cho các công ty khởi nghiệp bắt đầu cạn kiệt, dẫn đến việc khách hàng của họ – bao gồm cả các công ty khởi nghiệp công nghệ và giám đốc điều hành khai thác tài khoản của họ nhiều hơn. Ngân hàng cũng có một số lượng đáng kể những người gửi tiền lớn, không được bảo hiểm – những nhà đầu tư có xu hướng rút tiền khi có dấu hiệu bất ổn. Để đáp ứng yêu cầu của khách hàng, ngân hàng đã phải bán một số khoản đầu tư của mình với mức chiết khấu cao.
Sau khi SVB tiết lộ khoản lỗ khổng lồ của mình, ngành công nghệ đã hoảng loạn và các công ty mới thành lập vội vã rút tiền, dẫn đến việc ngân hàng phải rút tiền.
Tổng công ty Bảo hiểm Tiền gửi Liên bang đã công bố rằng họ sẽ tiếp quản SVB, sau khi ngân hàng và các cố vấn tài chính của họ đã cố gắng và thất bại trong việc tìm người mua. Việc tiếp quản đã mang lại khoảng 175 tỷ đô la cho khách hàng tiền gửi dưới sự kiểm soát của cơ quan quản lý liên bang.
Sự sụp đổ của SVB là vụ phá sản là lớn nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Sau cuộc khủng hoảng đó, Quốc hội Mỹ đã thông qua gói điều tiết tài chính Dodd-Frank, nhằm ngăn chặn những sự sụp đổ như vậy.
Năm 2018, Tổng thống Donald J. Trump đã ký một dự luật giảm tần suất các ngân hàng khu vực phải chịu các bài kiểm tra căng thẳng của Cục Dự trữ Liên bang. Tuần trước, khi thông tin về sự thất bại của SVB lan rộng, một số chuyên gia ngân hàng cho biết gói Dodd-Frank có thể đã buộc ngân hàng này phải xử lý rủi ro lãi suất tốt hơn.
Thụy Trang – Báo Mỹ
Leave a comment